Ít người uống cà phê biết rằng có nhiều giống cà phê Arabica. Lý do chính bởi đa số cà phê trên thế giới đã và đang được giao dịch dựa vào nguồn gốc. Một kiện hàng có thể bao gồm cà phê từ nhiều nhà sản xuất. Đến lúc xuất khẩu, không ai biết được giống nào thuộc về nhà sản xuất nào, mà chỉ biết cà phê này được sản xuất ở vùng nào.
Cây Cà Phê Arabica
Giống cà phê Arabica - Coffea Arabica, hay còn gọi là cà phê Chè trong tiếng Việt. Đây là một trong những giống cà phê đầu tiên được trồng và vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp cà phê trên toàn thế giới.
Cà phê Arabica có nguồn gốc từ vùng cao nguyên Ethiopia, với tán nhỏ, màu xanh đậm và lá hình oval. Bên cạnh đó, với đặc tính ưa sống ở vùng núi cao, nên giống Arabica được canh tác ở khu vực có độ cao tối thiểu từ 1.200 - 2.200m. Cây trưởng thành đạt chiều cao từ 2.5 - 4.5m và cho thu hoạch vào năm thứ 3. Ở môi trường tự nhiên, cà phê Arabica có thể đạt độ cao 10m và sống đến 70 năm.
Các Giống Cà Phê Arabica
Cây cà phê đầu tiên được canh tác ở Ethiopia. Giống cà phê này mang tên là Typica và chúng vẫn được trồng rộng rãi cho đến hôm nay. Bên cạnh một số giống thuần, ngày càng xuất hiện nhiều giống mới nhờ quá trình lai tạo hoặc đột biến trong tự nhiên.
Ngành cà phê là một tập hợp đa dạng về loài, một số loài có hương vị đặc trưng riêng từ giống. Một số giống khác lại có đặc tính dựa vào vùng trồng, phương pháp canh tác và thu hoạch, cũng như quy trình sơ chế cà phê nhân.
Và những mô tả về hương vị của các giống phổ biến sau đây sẽ không thật sự chính xác, trừ khi chúng thật nổi bật. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thử nếm. Do đó, sẽ thật không chính xác nếu đưa ra những kết luận vội vàng như sau.
Giờ đến với các giống Arabica thôi nào!
1. Typica
Đây được coi là ông tổ của dòng Arabica, Hà Lan chính là quốc gia có công đầu tiên trong việc mang cà phê phổ biến và thương mại chúng trên khắp thế giới. Typica là giống họ chọn để mang theo trong những chuyến đi dài ngày đến nhiều vùng đất mới. Quả cà phê Typica thường có màu đỏ khi chín và cho ra ly cà phê chất lượng cao. Tuy nhiên, sản lượng của Typica không cao bằng những giống khác, đó chính là khuyết điểm của giống cà phê này.
Typica vẫn được trồng rộng rãi ở nhiều nước và mang nhiều tên bản địa khác như Criollo, Sumatra và Arabigo.
2. Bourbon
Bourbon là giống đột biến tự nhiên từ Typica, sự đột biến xảy ra ở đảo Reunion (bấy giờ có tên là Bourbon) với sản lượng cao hơn giống Typica. Nhiều người tin rằng quả Bourbon có vị ngọt đặc trưng và thơm ngon hơn các giống cà phê khác. Vì vậy, đặc điểm này mang lại giá trị và lợi thế chọn lựa dành cho Bourbon. Quả Bourbon chín có một số màu khác nhau: điển hình là đỏ, vàng và thỉnh thoảng có màu cam.
Trong quá khứ, Bourbon được trồng rộng rãi nhưng sau đó lại bị thay thế ở nhiều nước bởi các giống mới có sản lượng cao hơn. Đây cũng là một khiếm khuyết do chính thị trường tạo ra, khi thị trường vốn chạy theo lợi nhuận thay vì dành sự quan tâm đến việc trải nghiệm hương vị cà phê.
3. Mundo Novo
Đây là giống lai tự nhiên của Typica và Bourbon, được khám phá ở Brazil vào những năm 1940, Mundo Novo là tên của một vùng thuộc Brazil - nơi giống này được phát hiện. Giống được phổ biến rộng rãi nhờ năng suất cao, khả năng chống sâu bệnh và phát triển tốt ở độ cao 1.000 - 1.200m. Đây cũng là độ cao trung bình ở Brazil.
4. Caturra
Là giống đột biến từ Bourbon, được phát hiện ở Brazil vào năm 1937 và đạt sản lượng khá cao. Tuy cành của Caturra có khả năng chịu được trọng lượng cao, nhưng cây thường mọc nhiều quả hơn khả năng chịu lực của cành, làm cành và thân bị gãy.
Người nông dân đã khắc phục điều này bằng phương pháp canh tác phù hợp. Giống này phổ biến ở Colombia và Trung Mỹ, cũng như ở Brazil. Chất lượng ly cà phê của Caturra cũng tốt và việc thay đổi độ cao canh tác sẽ làm tăng chất lượng nhưng làm giảm năng suất. Caturra có 2 giống: quả vàng và quả đỏ, chúng đều là giống mọc thấp, đây là lợi thế để thu hoạch bằng tay.
5. Catuai
Đây là giống lai nhân tạo giữa Caturra và Mundo Novo, ra đời ở viện nghiên cứu Instituto Agronomico Do Campinas ở Brazil trong những năm 1950 và 1960. Cây thừa hưởng chiều cao thấp của Catura và năng suất cao của Mundo Novo. Giống như Catura, Catuai có hai giống: quả vàng và quả đỏ.
6. Geisha hay Gesha
Có nhiều ý kiến khác nhau về tên đúng của giống này, tuy "Geisha" được dùng phổ biến hơn. Gesha là một thị trấn ở phía Tây Ethiopia. Khi giống này được mang vào Panama từ Costa Rica, nó được cho là có nguồn gốc từ Ethiopia. Giống này tạo ra ly cà phê có hương thơm hoa quả và nhu cầu của chúng thì tăng nhanh trong nhiều năm gần đây.
7. Pacas
Pacas là giống đột biến tự nhiên từ Bourbon, được khám phá ở El Salvado vào năm 1949 bởi gia đình Pacas. Giống có quả chín màu đỏ, mọc thấp và dễ thu hoạch. Chất lượng của Pacas cũng có nhiều điểm giống Bourbon nên cũng được ưa chuộng.
8. Maragogype
Là một trong những giống dễ được nhận biết, Maragogype đột biến từ Typica, được phát hiện ở Brazil. Điểm nổi bật của chúng là kích thước lá cây và quả to bất thường so với các giống khác. Dù vậy, chúng có năng suất khá thấp. Chúng thường được gọi là "Elephant" hoặc "Elephant Beans" và quả của chúng có màu đỏ khi chín.
9. Pacamara
Là giống lai giữa Pacas và Maragogype, chúng được lai nhân tạo ở El Sanvador năm 1958. Giống Maragogype, Pacamara thừa hưởng kích thước lá cây, quả và trái cực to. Hương vị của cà phê Pacamara được nhiều người yêu thích, và mô tả chúng giống vị của thảo dược và chocolate. Nhưng đôi khi chúng cũng gây khó chịu bởi gợi nhớ đến mùi hành tây.
10. SL-28
Là một giống có giá trị, SL-28 được lai tạo ở trung tâm nghiên cứu Scott Laboratories trong những năm 1930, thừa hưởng khả năng chịu hạn của giống từ Tanzania. Cây có quả chín đỏ và hạt to rõ ràng hơn mức trung bình. Giống này được đánh giá có khả năng tạo ra ly cà phê với hương vị trái cây đặc trưng, thường được miêu tả là quả phúc bồn tử (blackcurrant). Giống này dễ bị bệnh rỉ lá và phát triển tốt ở những vùng núi cao.
11. SL-34
Được chọn từ giống Bourbon được mang theo bởi người Pháp. Giống được mang về Châu Phi từ Bourbon, xuất hiện đầu tiên ở Tanzania và sau đó ở Kenya. Nó cũng có hương vị trái cây đặc trưng nhưng chất lượng thử nếm của SL-34 thường bị đánh giá thấp hơn SL-28. SL-34 cũng hay bị rỉ lá và quả chín có màu đỏ.
12. Kent
Lấy cảm hứng từ tên người đã tìm ra chúng, Kent được phát hiện ra trong 1 chương trình chọn lọc ở Ấn Độ vào năm 1920. Giống này được chọn để phát triển nhờ khả năng chống bệnh rỉ lá, dù rằng nó vẫn có tiềm ẩn nguy cơ mắc những loại bệnh mới.
13. S795
Cũng là một giống được phát hiện ở Ấn Độ, chúng là kết quả giữa cặp lai từ Kent và S288 (một giống cổ xưa nhưng có khả năng kháng bệnh rỉ lá). S795 được trồng rộng rãi khắp Ấn Độ và Indonesia. Đáng tiếc là hiện nay, giống này đã bị cho là mất hết khả năng chống sâu bệnh.
-----
Tham khảo The World Atlas of Coffee - Dịch và chỉnh sửa bởi D&D Kaffee
Hotline nhận mẫu thử cà phê rang: 090 678 3976
Địa chỉ: Số 17 - Đường D15A, Phường Phước Long B, TP Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Tham khảo thêm nhiều sản phẩm tại đây: https://ddkaffee.com/collections/ca-phe-hat-rang